A. Các tế bào
Tế bào biểu mô: là những tế bào già cỗi bong ra. Không có giá trị chẩn đoán nếu số lượng có ít; nếu có nhiều quá, có thể do viêm âm hộ, niệu đạo, bàng quang hoặc đường dẫn niệu. Có thể phân biftt tỷ mỷ được từng loại tế bào cùa từng bộ phận đó. Những tế bào biểu mô có những chất vùi mỡ óng ánh là đặc hiệu của hội chứng thận hư.
. Tế bào hạt: từ các ông thận bị hư hòng thoát ra. Rất quan trọng trong việc chẩn đoán viêm thận cấp hoảc bán cấp tính.
. Té bào unẹ thư: rất to, gặp trong các bệnh ung thư đường tiết niệu (thận, bàng quang...).
. Hồng cấu: tùy theo mức độ bị hủy hoại, có thể chẩn đoán được bộ phận thương tổn: Nếu không bị hủy hoại: thương tổn ờ bàng quang và niệu dạo. m •
Nếu bị hủy hoại: thương tổn ờ thận.
Hồng cầu thường gặp trong các bệnh viftm thận cấp tính, nhiẻm độc nhiễm khuẩn ờ thận, do sỏi, do lao, thiếu vitamin c và các tình trạng chảy máu.
Sô' lượng hổng cẩu phải thật nhiều và thường xuyên mới có thể kết luận là đái ra máu. Bình thường, trong 1 - 2 )il nước tiểu có thể có 1 hổng cẩu. Ở phụ nữ, cẩn phải phân ỉoại với máu lẫn trong nước tiểu trong kỳ kinh nguyệt.
. Bạch cầu: nước tiểu bình thường có từ 10 - 15 bạch cầu trong 1 fỉl. Khi thấy nhiéu bạch cẩu đang bị hủy hoại, nên nghĩ đến nước tiểu có mủ.
. Một đổi khi, có thể thấy tinh trừng trong nước tiếu.