Mài mòn da (DERMABRASION)
- Tác giả: Mohammed Alsaidan, MD, Sanjana Iyengar, MD, Vidhi V. Shah, BA, Fleta N. Bray, BS, Keyvan Nouri , MD
- Chuyên ngành: Da Liễu
- Nhà xuất bản:Bộ Y tế
- Năm xuất bản:Đang cập nhật
- Trạng thái:Chờ xét duyệt
- Quyền truy cập: Cộng đồng
Mài mòn da (DERMABRASION)
Tác giả: Mohammed Alsaidan, MD, Sanjana Iyengar, MD, Vidhi V. Shah, BA, Fleta N. Bray, BS, Keyvan Nouri , MD
University of Miami Miller School of Medicine, Department of Dermatology and Cutaneous Surgery, Miami, FL, US
Biên dịch: Bs. Trương Tấn Minh Vũ
NHỮNG ĐIỂM CHÍNH
Mài mòn da là một thủ thuật có thể làm ở phòng khám, được sử dụng để thay đổi bề mặt da và thúc đẩy sự phát triển của làn da mới.
Siêu mài mòn da phù hợp cho bệnh nhân muốn cải thiện thẩm mỹ về tông màu và kết cấu của da lão hoá nhẹ.
Mài mòn da và siêu mài mòn da là các thủ thuật hiệu quả trong thẩm mỹ để cải thiện các nếp nhăn, sẹo, sẹo lồi, mảnh da ghép, xăm, mụn và da bị tổn thương do ánh sáng mặt trời.
GIỚI THIỆU
Mài mòn da là một thủ thuật được sử dụng để thay đổi bề mặt da và thúc đẩy sự phát triển của làn da mới [1]. Thủ thuật này đã được thực hiện trong nhiều năm để tái tạo bề mặt da và cải thiện bề mặt của các vết sẹo. Mặc dù sự phổ biến của kỹ thuật này đã giảm đi với sự ra đời của lột da hóa chất, siêu mài mòn da và tái tạo bề mặt bằng laser, mài mòn da vẫn giữ được một số lợi ích so với các quy trình khác [2, 3]. Điều trị nếp nhăn sâu và ngăn ngừa tổn thương tiền ung thư có thể hiệu quả hơn khi sử dụng phương pháp mài mòn da so với các kỹ thuật khác [4].
TÌM HIỂU VỀ MÀI MÒN DA
Da được chia thành ba lớp: lớp biểu bì và lớp bì và lớp hạ bì. Lớp biểu bì là lớp da bề mặt, bao gồm nhiều lớp tế bào da (được gọi là tế bào sừng) liên tục tái tạo. Lớp bì được chia thành 2 lớp: lớp bì nhú và lớp bì lưới. Lớp bì lưới là lớp sâu hơn của lớp bì và bao gồm collagen giàu protein, cung cấp cho da độ đàn hồi và sức căng [1].
Siêu mài mòn da nhắm vào lớp biểu bì bề mặt, trong khi mài mòn da nhắm vào cả lớp biểu bì và lớp bì [3, 4]. Tổn thương có kiểm soát của lớp bì dẫn đến sự kích thích của một số tế bào trong lớp bì, được gọi là nguyên bào sợi. Các nguyên bào sợi bắt đầu quá trình chữa lành bằng cách sản sinh collagen, giúp cải thiện bề mặt của da [1, 4].
Da mặt có nguồn cung cấp máu phong phú, các chất dinh dưỡng và oxy để chữa lành các khu vực bị tổn thương. Các tuyến bã nhờn và nang lông cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi lớp bì. Trong quá trình thủ thuật, có thể chảy một lượng máu nhỏ do tổn thương vào lớp bì [1]. Kết quả cải thiện sẽ nhiều hơn nếu thâm nhập sâu hơn vào lớp bì, nhưng nguy cơ tác dụng phụ cũng sẽ tăng lên, như sẹo và thay đổi sắc tố [1].
LỊCH SỬ MÀI MÒN DA
Mài mòn da có thể được bắt nguồn từ năm 1500 trước Công nguyên khi các bác sĩ Ai Cập sử dụng giấy nhám để làm mờ sẹo [4]. Kromeyer, một bác sĩ da liễu người Đức vào những năm 1900, đã bắt đầu điều trị các vấn đề về da bằng một mũi xoay hoặc mâm quay [3, 4]. Việc sử dụng mài mòn da được mở rộng để xóa hình xăm chấn thương trên mặt vào năm 1947 [5]. Năm 1953, thiết bị nha khoa chạy điện đã được sửa đổi để sử dụng trong mài mòn da [6]. Sẹo mụn, tổn thương da tiền ung thư, nếp nhăn, sẹo, hình xăm và nốt ruồi được điều trị bằng thiết bị này trong cùng năm [2].
Trong hơn 60 năm qua, các dụng cụ và kỹ thuật được sử dụng cho dermabrasion đã được tối ưu hóa để tạo ra kết quả tốt nhất.
DERMABRADERS
Dermabraders là thiết bị được sử dụng để tái tạo bề mặt da, bao gồm một động cơ điện, quay với tốc độ khác nhau. Phần đầu thô, có thể là bàn chải dây hoặc đầu kim cương, có nhiều kích cỡ và hình dạng khác nhau. Bác sĩ hoặc phẫu thuật viên chọn công cụ dựa trên diện tích và độ sâu thâm nhập [3]. Trong suốt quá trình, dermabrader được nhẹ nhàng chạm lên da khi nó đang chuyển động. Kết quả có thể được nhìn thấy tùy thuộc vào tốc độ và lực áp được sử dụng [3]. Trong khi dermabraders thường được sử dụng cho thủ thuật này, việc sử dụng giấy cát tiệt trùng cũng có thể mang lại kết quả tốt. Bất kể công cụ nào được sử dụng, kỹ thuật phù hợp với người vận hành có kinh nghiệm là rất quan trọng.
CHỈ ĐỊNH
Mài mòn da có nhiều chỉ định cho da. Nó có thể được sử dụng để điều trị nếp nhăn, sẹo, sẹo lồi, mảnh da ghép, hình xăm, mụn trứng cá và da bị tổn thương do ánh sáng mặt trời [2, 3, 7]. Tổn thương tiền ác tính và tổn thương ác tính bề mặt có thể được điều trị bằng dermabrasion trong một số trường hợp. Ung thư biểu mô tế bào đáy và tế bào vảy đã được điều trị thành công bằng kỹ thuật tái tạo bề mặt da, việc sử dụng dermabrasion nên được thận trọng vì nó ngăn cản sự phân độ chính xác của khối u [3].
Trước khi bắt đầu thủ thuật, bác sĩ sẽ khám và lấy thông tin tiền sử về da. Hạn chế của thủ thuật nên được thảo luận để bệnh nhân có những kỳ vọng thực tế. Ví dụ, dermabrasion phù hợp hơn cho các nếp nhăn nhỏ và có thể không hiệu quả trong việc điều trị các nếp nhăn sâu với cùng một mức tác động [3].
Một số vấn đề nên được trao đổi với bác sĩ. Tiền sử sẹo xấu, thiếu máu, rối loạn chảy máu, bùng phát herpes trước đó, lichen planus và bệnh vẩy nến nên được thông báo [1, 7]. Việc sử dụng steroid kéo dài và sử dụng thuốc chống đông máu và thuốc giảm đau như thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) cũng cần lưu ý [1]. Trước khi làm thủ thuật, nên ngưng dùng thuốc làm loãng máu và bất kỳ loại thuốc nào gây tăng sắc tố [3]. Dự phòng bằng thuốc kháng virus khi mài mòn da quanh miệng hoặc toàn mặt. Ngoài ra, nếu có tiền sử dị ứng hoặc bệnh chốc lở, bệnh nhân có thể được chỉ định điều trị dự phòng bằng kháng sinh [7]. Nếu có đợt bùng phát herpes gần đây, nên đợi ít nhất 6 đến 8 tuần trước khi điều trị [1, 7]. Mụn trứng cá viêm có thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, có thể phải uống kháng sinh trước khi làm thủ thuật [3]. Isotretinoin, một thuốc uống điều trị toàn thân cho mụn trứng cá, có thể gây ra sẹo phì đại cho những người được làm thủ thuật, nên ngưng dùng isotretinoin tối thiểu 6 tháng trước khi làm thủ thuật [1]. Những người đã được căng da mặt nên trì hoãn việc trị liệu da trong 6 tháng sau khi phẫu thuật [7].
Trong quá trình mài mòn da, các hạt máu nhỏ có thể xuất hiện trong không khí do cơ chế xoay của đầu mài mòn; do đó, những bệnh nhân có bệnh truyền qua đường máu như viêm gan C và HIV nên được loại trừ khỏi quy trình [1]. Thay đổi sắc tố có thể xảy ra sau khi làm thủ thuật ở những bệnh nhân có loại da sẫm màu [1, 3]. Hydroquinone có thể được chỉ định trước khi làm thủ thuật để giúp ngăn ngừa tăng sắc tố [3]. Phơi nắng nên được giảm thiểu trong 2 tháng trước khi làm thủ thuật [1]. Tretinoin có thể được dùng cho bệnh nhân một vài tuần trước khi làm thủ thuật để thúc đẩy quá trình lành vết thương.
THỰC HIỆN THỦ THUẬT
Dermabrasion là một thủ thuật được thực hiện tại phòng khám, gây tê tại chỗ. Gây tê cục bộ hoặc gây mê toàn thân có thể được thực hiện nếu cần thiết [3]. Ngoài ra, thổi lạnh có thể được sử dụng để làm mát da và ngăn ngừa tổn thương nhiệt thứ phát [1, 2]. Khu vực mài mòn da được đánh dấu và chia thành các phần [3]. Trước khi làm thủ thuật, da được khử trùng [1]. Trong suốt quá trình, da bị kéo căng trong khi dermabrader di chuyển trên da với áp lực không đổi và nhẹ nhàng. Bác sĩ bắt đầu ở khu vực bên ngoài và đi từ từ vào bên trong để đảm bảo điều trị toàn bộ [1]. Không thấy chảy máu khi điều trị lớp bề mặt của da, còn được gọi là lớp biểu bì. Một lượng nhỏ chảy máu được ghi nhận khi đi vào lớp sâu hơn của da, hoặc lớp bì nhú. Mài mòn da ở lớp sâu của da, hoặc lớp bì lưới, có thể dẫn đến sẹo đáng kể [3]. Cần thận trọng xung quanh mí mắt, môi và vùng thái dương vì những vùng này dễ bị sẹo hơn.
CHĂM SÓC SAU THỦ THUẬT
Sau thủ thuật, gạc ngâm nước muối được áp vào vết thương hở để thúc đẩy quá trình lành vết thương [3]. Sử dụng thuốc bôi kháng sinh, kem dưỡng ẩm, băng vết thương và làm sạch vết thương hàng ngày [1]. Phải mất 1 đến 2 tuần để lành thương. Thời gian phục hồi kéo dài 2 đến 4 tuần. Đỏ và sưng có thể kéo dài 1 đến 2 tháng. Bệnh nhân có thể trở lại làm việc trong vòng 2 tuần. Bệnh nhân nên giảm thiểu phơi nắng và sử dụng kem chống nắng để tránh tăng sắc tố [3]. Hydroquinone có thể được sử dụng nếu tăng sắc tố xảy ra [3].
BIẾN CHỨNG
Nếu được thực hiện bởi một bác sĩ có chuyên môn, sẽ có kết quả lâm sàng tốt với các tác dụng phụ tối thiểu. Thay đổi sắc tố là biến chứng phổ biến nhất. Sẹo, sẹo lồi, mụn trứng cá [7] và sự hình thành các nang nhỏ màu trắng, được gọi là milia, có thể được nhìn thấy sau khi mài mòn da [2, 3, 7]. Các vùng xương như g má và vùng môi trên dễ bị tổn thương sâu hơn [7]. Nếu áp lực không đều trong suốt quá trình, da có thể xuất hiện vệt và đốm [1]. Các biến chứng sau thủ thuật cũng bao gồm nhiễm trùng do vi khuẩn, nấm hoặc virus. Những nhiễm trùng này cần được bác sĩ điều trị kịp thời để tránh sẹo. Steroid tại chỗ hoặc toàn thân có thể được sử dụng để điều trị bệnh chàm và viêm da do mài mòn da [1].
SIÊU MÀI MÒN DA (MICRODERMABRASION)
Microdermabrasion là một thủ thuật thẩm mỹ ít xâm lấn phổ biến. Thủ thuật có thể được thực hiện bởi những người không phải bác sĩ tại các spa, phòng khám thẩm mỹ và phòng khám [3]. Nó có thể được lặp lại trong khoảng thời gian ngắn với các lần thực hiện kéo dài 30 phút và không cần thời gian nghỉ ngơi [8]. Microdermabrasion là tốt nhất cho bệnh nhân muốn cải thiện tông màu và kết cấu của da. Thủ thuật làm giảm sản xuất dầu trên da, giữ độ ẩm cho da và cải thiện kết cấu của da [1].
Microdermabrasion có thể được sử dụng trong điều trị nếp nhăn, mụn trứng cá, sẹo mụn, vết rạn da và lỗ chân lông to. Quy trình không xâm lấn nên hạn chế hiệu quả đối với việc điều trị da khác vì nó chỉ nhắm vào lớp biểu bì. Do đó, thực hiện thủ thuật nhiều lần là cần thiết để đạt được hiệu quả thấy rõ [3, 9]. Khoảng hai đến ba lượt điều trị được thực hiện mỗi lần để đạt được kết quả cần thiết [8, 9].
Thủ thuật này bao gồm một thiết bị có chùm tinh thể mịn để bào bề mặt da sau đó hút sạch các mảnh mô vụn [3, 8, 9]. Độ sâu của siêu mài mòn da phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự tiếp xúc của da với thiết bị và lực hút chân không. Các tổn thương lặp đi lặp lại cho da kích thích các tế bào da và collagen tăng sinh. Điều này làm cải thiện bề mặt của các nếp nhăn [8].
Microdermabrasion có thể gây ra các vết trầy xước nhỏ và sẹo nếu được thực hiện mạnh bạo. Khánh hàng có thể cảm thấy đau và đỏ với thủ thuật này. Những biến chứng này được điều trị bằng thuốc kháng viêm không steroid như Ibuprofen [3]. Microdermabrasion an toàn cho mọi loại da với tỷ lệ rất thấp bị tăng sắc tố sau viêm. Kích ứng mắt có thể xảy ra trong các thiết bị dựa trên tinh thể. Di chuyển tay cầm microdermabrasion từ vùng da bị nhiễm trùng sang vùng da thường có thể truyền một số bệnh do virus, chẳng hạn như mụn cóc hoặc molluscum contagiosum. Mặc dù hiếm, phát ban có thể xuất hiện và có thể nghiêm trọng. Các trường hợp không nên điều trị bằng dermabrasion và microdermabrasion bao gồm những người có tiền sử xạ trị ở vùng cần điều trị, sẹo phì đại và sử dụng isotretinoin gần đây [1].
KẾT LUẬN
Với người có kinh nghiệm, dermabrasion và microdermabrasion là các thủ thuật hiệu quả trong thẩm mỹ. Mặc dù sự phổ biến của dermabrasion đã giảm đi khi các quy trình mới hơn được đưa ra như tái tạo bề mặt da bằng laser, nhưng dermabrasion vẫn giữ được một số lợi ích so với các quy trình này ở những trường hợp nhất định. Tư vấn bởi bác sĩ thẩm mỹ có kinh nghiệm sẽ hướng dẫn bệnh nhân phương pháp tốt nhất cho từng trường hợp cá nhân.
KHUYẾN NGHỊ
Nên trao đổi với bác sĩ về mài mòn da nếu quan tâm đến việc loại bỏ các nếp nhăn nông.
Báo cáo tiền sử sẹo lành kém, thiếu máu, rối loạn chảy máu, bùng phát herpes trước đó, lichen planus và bệnh vẩy nến cũng như sử dụng steroid, thuốc chống đông máu, thuốc giảm đau như thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) trước khi bắt đầu.
Bệnh nhân nên giảm thiểu phơi nắng và sử dụng kem chống nắng để tránh tăng sắc tố sau các thủ thuật trị liệu da.
Nếu có tiền sử dùng phóng xạ ở vùng cần điều trị, sẹo phì đại hoặc sử dụng isotretinoin gần đây, nên tránh dùng dermabrasion và microdermabrasion.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Smith, J. E. 2014. “Dermabrasion.” Facial Plast Surg 30 (1):35-9. doi: 10.1055/s0033-1363759.
Gold, M. H. 2003. “Dermabrasion in dermatology.” Am J Clin Dermatol 4 (7):46771.
Kim, E. K., R. V. Hovsepian, P. Mathew, and M. D. Paul. 2011. “Dermabrasion.” Clin Plast Surg 38 (3):391-5, v-vi. doi: 10.1016/j. cps.2011.05.001.
Lawrence, N., S. Mandy, J. Yarborough, and T. Alt. 2000. “History of dermabrasion.” Dermatol Surg 26 (2):95-101.
Iverson, P. C. 1947. “Surgical removal of traumatic tattoos of the face.” Plast Reconstr Surg (1946) 2 (5): 427-32.
Kurtin, A. 1953. “Corrective surgical planing of skin; new technique for treatment of acne scars and other skin defects.” AMA Arch Derm Syphilol 68 (4):389-97.
Campbell, R. M., and C. B. Harmon. 2008. “Dermabrasion in our practice.” J Drugs Dermatol 7 (2):124-8.
Friedman, S., and J. Lippitz. 2009. “Chemical peels, dermabrasion, and laser therapy.” Dis Mon 55 (4):223-35. doi: 10.1016/j.disamonth.2008. 12.004.
Karimipour, D. J., G. Karimipour, and J. S. Orringer. 2010. “Microdermabrasion: an evidence-based review.” Plast Reconstr Surg 125 (1):372-7. doi: 10.1097/PRS.0b013e3181c2a583.
-
Tài liệu mới nhất
-
Rung nhĩ trong suy tim cấp (Atrial fibrillation in acute heart failure)
21:40,28/11/2022
-
Hướng dẫn của ESC 2022 về quản lý bệnh nhân rối loạn nhịp thất và phòng ngừa đột tử do tim – P1
22:29,26/11/2022
-
So sánh giá trị các phân loại EU-TIRADS, K-TIRADS và ACR-TIRADS
21:21,20/11/2022
-
Quy chế công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ của cơ quan Bộ Y tế
20:44,18/11/2022
-
Hướng dẫn: Ghi chép Phiếu chẩn đoán nguyên nhân tử vong
16:36,18/11/2022
-
Siêu âm thoát vị hoành thai nhi: Kỹ thuật đánh giá và tiên lượng trên siêu âm
22:35,13/11/2022
-
Não thoái hóa nước hay não úng thủy
21:30,12/11/2022
-
Theo dõi nỗ lực hít vào của bệnh nhân trong quá trình thở máy: Thông khí bảo vệ phổi và cơ hoành
21:10,07/11/2022
-
Time constant: Chúng ta cần biết gì để sử dụng nó?
21:43,06/11/2022
-
Làm thế nào tôi thiết lập áp lực dương cuối thì thở ra
20:30,06/11/2022
-
Rung nhĩ trong suy tim cấp (Atrial fibrillation in acute heart failure)